Động từ Hy Lạp: egeirô xuất hiện 13 lần trong Tin Mừng Gio-an ở các nơi: 2,19.20.22; 5,8.21; 7,52; 11,29; 12,1.9.17; 13,4; 14,31; 21,14 và có 4 nghĩa:
(1) “Dựng lại”, (tiếng Anh: raise up, construct; Pháp: relever,
construire), 2 lần: 2,19.20.
(2) “Xuất hiện”, (tiếng Anh: appear,
arise; Pháp: apparaître, se lever), 1 lần: 7,52.
(3) “Trỗi dậy” theo nghĩa “đứng lên”, “đứng dậy”, (tiếng Anh: raise up;
Pháp: se relever), xuất hiện 4 lần: 5,8; 11,29; 13,4; 14,31.
(4) “Trỗi dậy” theo nghĩa “sống lại”, (tiếng Anh: raise
up; Pháp: se lever), xuất hiện 6 lần: 2,22; 5,21; 12,1.9.17; 21,14.
1) Egeirô: Dựng lại, “dựng lại Cung Thánh” (2 lần:
2,19.20)
Động từ egeirô có nghĩa “dựng lại”, xuất hiện 2 lần trong
đoạn văn 2,13-22, thuật lại tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái.
Sau khi Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn bán trong Đền Thờ, những người Do Thái đã
chất vấn Đức Giê-su: “Bằng dấu lạ nào Ông [Đức Giê-su] chứng tỏ cho chúng tôi
là Ông có quyền làm điều đó?” (2,18). Đức Giê-su nói với họ: “Các ông hãy phá
Cung Thánh này; và trong ba ngày, Tôi sẽ dựng lại (egerô) nó” (2,19). Họ liền
nói lại: “Cung Thánh này được xây dựng bốn mươi sáu năm, còn Ông, Ông dựng lại
(egereis) nó trong ba ngày sao?” (2,20). Những người Do Thái không hiểu ý Đức
Giê-su, họ chỉ hiểu theo nghĩa xây dựng một “Cung Thánh” vật chất mà không hiểu
là Đức Giê-su muốn nói đến chính sự phục sinh thân xác của Người. Người thuật
chuyện cho biết: “Người [Đức Giê-su] nói về Cung Thánh là thân thể của Người” (2,21).
Ở các câu 2,19-20, xuất hiện 2 lần động từ egerô để nói về việc “dựng lại” Cung
Thánh. Lần thứ nhất Đức Giê-su nói “dựng lại” Cung Thánh theo nghĩa thần học
(2,19). Lần thứ hai những người Pha-ri-sêu nói “dựng lại” Cung Thánh theo nghĩa
vật chất (2,20).
2. Egeirô: Xuất hiện (1 lần: 7,52)
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng dạy (x. 7,14.40),
đám đông dân chúng, trong đó có cả những người Do Thái (7,15) và những người
Pha-ri-sêu (7,32), có những biểu hiện khác nhau. Giáo huấn của Đức Giê-su
(7,14-39) dẫn đến những phản ứng khác nhau về Người (7,40-41) và đã có chia rẽ
giữa đám đông (7,43). Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu tỏ ra khó chịu với
các thuộc hạ của mình khi không tra tay bắt Đức Giê-su. Họ đã khiển trách các
thuộc hạ vì những người này thán phục lời rao giảng của Đức Giê-su (7,45-48). Họ
còn nguyền rủa đám đông vì đám đông không biết Lề Luật (7,49). Trong hoàn cảnh
này, Ông Ni-cô-đê-mô, một người trong nhóm Pha-ri-sêu, đã nói với các thượng tế
và những người Pha-ri-sêu để cho thấy chính họ cũng chẳng giữ Lề Luật: “Lề Luật
của chúng ta không kết án người nào, nếu trước đó không nghe người ấy và biết
người ấy làm gì phải không?” (7,51). Thế nhưng, họ đã cố gắng lẩn tránh lời tố
cáo của ông Ni-cô-đê-mô bằng cách khiển trách ông: “Không phải chính ông cũng
là người Ga-li-lê sao? Hãy nghiên cứu và thấy rằng: Không một ngôn sứ nào xuất
hiện (egeiretai) từ Ga-li-lê cả” (7,52). Có truyền thống cho rằng người ta không
biết rõ vị trí của vị ngôn sứ mà dân Ít-ra-en đang mong đợi ở đâu (x. 7,27). Thực
ra, Đức Giê-su vừa xuất thân từ Ga-li-lê, vì Người là con ông Giu-se (6,41); Người
vừa đến từ Thiên Chúa, vì Người không chỉ là một ngôn sứ mà còn là Con Một của Thiên
Chúa (x. 1,18). Trong câu trả lời của những người lãnh đạo và các Pha-ri-sêu (7,52),
người thuật chuyện đã sử dụng động từ egerô để nói đến việc “xuất hiện” theo
nghĩa “trỗi dậy” của một vị ngôn sứ ở một nơi nào đó.
3. Egeirô: Trỗi dậy, đứng lên, đứng dậy (4 lần)
Động từ egeirô có nghĩa “trỗi dậy”, “đứng lên”, “đứng dậy”
hay thoát khỏi một tình trạng hay ví trí, xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Gio-an
ở 5,8; 11,29; 13,4; 14,31. Có một chi tiết lạ lùng trong trình thuật Đức Giê-su
chữa lành người bại liệt tại hồ Bết-da-tha (5,1-9) vào ngày Sa-bát (x. 5,9).
Khi Đức Giê-su hỏi người bại liệt: “Anh muốn trở nên khoẻ mạnh không?”, thay vì
tuyên xưng niềm tin của mình như viên sĩ quan nhà vua (x. 4,49) trước lời mời gọi
của Người, người bại liệt đã trả lời bằng một lời phàn nàn: “Thưa Ngài, tôi
không có người nào để đem tôi xuống hồ khi nước được khuấy động. Trong khi tôi
đến đó, người khác xuống trước tôi” (5,7). Đức Giê-su nói với người ấy: “Anh
hãy trỗi dậy (egeire), hãy vác chõng của anh và hãy bước đi” (5,8). Và người bại
liệt liền khoẻ mạnh và đi được (x. 5,9). Trong câu nói của Đức Giê-su (5,8), xuất
hiện động từ egerô để nói về hành động “trỗi dậy” hay “đứng dậy” của một người
bại liệt từ tĩnh sang động.
Ở ch. 11, trong đoạn văn nói về Ma-ri-a và Đức Giê-su
(11,28-32), người thuật chuyện cho thấy thái độ mong chờ và đón tiếp Đức Giê-su
của Ma-ri-a. Khi vừa nghe Mác-ta nói là “Thầy [Đức Giê-su] đến rồi và Thầy gọi
em” (11,28), “Ma-ri-a vội đứng lên (êgerthê) đến với Người” (11,29). Trong câu
này (11,29), hành động “đứng lên” hay “trỗi dậy” của Ma-ri-a được diễn tả bằng
động từ egerô.
Trong đoạn văn nói về việc Đức Giê-su rửa chân cho các
môn đệ (13,1-11), người thuật chuyện kể: “4 Người trỗi dậy khỏi bàn
ăn, cởi áo ngoài và lấy khăn thắt lưng mình. 5 Rồi Người đổ nước vào
chậu, bắt đầu rửa chân các môn đệ và lấy khăn Người thắt lưng mà lau” (13,4-5).
Người thuật chuyện đã sử dụng động từ egerô để diễn tả hành động trỗi dậy khỏi
bàn ăn của Đức Giê-su.
Trong đoạn văn 14,27-41, có sự thay đổi mạch văn trong những
lời an ủi cuối cùng của Đức Giê-su dành cho các môn đệ. Khi Đức Giê-su đang nói
về việc Người để lại bình an cho các môn đệ, việc Người ra đi và niềm vui của
các môn đệ có khi họ yêu mến Người, việc Thủ lãnh thế gian đang đến, thì trình
thuật kết thúc đột ngột với lời nói của Đức Giê-su: “Hãy đứng dậy (egeiresthe),
chúng ta ra khỏi đây” (14,31). Trong câu này (14,31), xuất hiện động từ egeirô
để diễn tả hành động “đứng dậy” của Đức Giê-su và các môn đệ. Lệnh truyền đứng dậy
ra đi này không được thực hiện, vì Đức Giê-su còn tiếp tục nói với các môn đệ 2
chương nữa (ch. 15–16) và Người ngỏ lời với Cha của Người trong ch. 17. Đến đầu
ch. 18 Đức Giê-su và các môn đệ mới ra đi. Có thể giải thích hiện tượng này bằng
quá trình “đọc lại bản văn”. Có thể nói Ga 15–17 là kết quả của quá trình suy
tư, “đọc lại” và sống giáo huấn của Đức Giê-su, sau đó được đưa vào sách Tin Mừng.
Câu 14,31 tiếp nối tự nhiên với 18,1.
Như vậy, trong các đoạn văn trên (5,8; 11,29; 13,4;
14,31), động từ “egeirô” được sử dụng để diễn tả sự “trỗi dậy” hay “đứng dậy”
hay “đứng lên” của một người.
4. Egeirô: Trỗi dậy là sống lại từ giữa kẻ chết (6 lần)
Động từ egeirô: Trỗi dậy, theo nghĩa “sống lại” từ giữa kẻ
chết, xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an: 2,22; 5,21; 12,1.9.17; 21,14.
Trước sự hiểu lầm của những người Do Thái về Cung Thánh
là thân thể Đức Giê-su và Cung Thánh theo nghĩa vật chất trong đoạn văn 2,23-22,
người thuật chuyện đã thêm vào một câu để giải thích cho độc giả: “Vậy khi Người
[Đức Giê-su] được trỗi dậy (êgerthê) từ giữa những kẻ chết, các môn đệ của Người
nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”
(2,22). Trong câu giải thích này (2,22), Đức Giê-su là túc từ của động từ “trỗi
dậy”, động từ chia ở dạng thụ động và tác nhân không được nói ra. Kiểu hành văn
này được gọi là “thụ động Kinh Thánh”. Chủ từ của động từ “trỗi dậy” được hiểu
ngầm là Thiên Chúa. Động từ egeirô ở đây để diễn tả sự “trỗi dậy” hay “sống lại”
của Đức Giê-su từ giữa những kẻ chết.
Ở đoạn văn nói về sự sống và sự xét xử (5,19-30), Đức
Giê-su đã nói với những người Do Thái: “Cha Tôi làm việc cho đến bây giờ, Tôi
cũng làm việc” (5,17). Để trả lời cho phản ứng khó chịu của những người Do Thái
khi nghe lời này, Đức Giê-su đã giải thích mối quan hệ đặc biệt của Người với
Cha của Người như sau: “19 Vậy Đức Giê-su trả lời và nói với họ: A-men, A-men,
Tôi nói cho các ông: Con không thể tự mình làm điều gì, ngoại trừ điều Người thấy
Cha làm; vì những điều Đấng ấy làm, Con cũng làm những điều đó như vậy. 20 Vì
Cha thương mến con và tỏ bày cho Người mọi điều mình làm, và sẽ tỏ bày cho Người
những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông kinh ngạc. 21 Vì như
cha làm trỗi dậy (egeirei) kẻ chết và làm cho sống thế nào, Con cũng làm cho sống
những ai Người muốn như vậy” (5,19-21). Theo truyền thống, chỉ một mình Thiên
Chúa, Cha của Đức Giê-su, mới làm trỗi dậy hay làm sống lại những kẻ đã chết; ở
đây, Đức Giê-su cũng có quyền năng làm việc đó. Như thế, Đức Giêsu có quyền
năng ngang hàng với Thiên Chúa. Trong câu 5,21, động từ egeirô được dùng để diễn
tả hành động “trỗi dậy” hay sự “sống lại” của kẻ chết.
Nghĩa “trỗi dậy” của động từ egeirô xuất hiện 3 lần trong
ch. 12 (12,1.9.17). Trong đoạn văn nói về việc Ma-ri-a xức dầu thơm cho Đức
Giê-su tại Bê-ta-ni-a (12,1-11), người thuật chuyện đã giải thích nơi đến của Đức
Giê-su để cho độc giả dễ hiểu: “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến
Bê-ta-ni-a, nơi La-da-rô ở, người mà Đức Giê-su cho trỗi dậy (êgeiren) từ giữa
những kẻ chết” (12,1). Trong câu này xuất hiện động từ egeirô để diễn tả việc “trỗi
dậy” hay “sống lại” của La-da-rô. Cũng trong đoạn văn 12,1-11, người thuật chuyện
kể về đám đông: “Nhiều đám đông người Do Thái biết là Người [Đức Giê-su] ở
đó. Họ đến không chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để thấy La-da-rô, người đã trỗi dậy
(êgeiren) từ giữa những kẻ chết” (12,9). Ở câu 12,9, hành động “trỗi dậy” hay “sống
lại” của La-da-rô được diễn tả qua động từ egeirô. Và cũng trong ch. 12, động từ
egeirô xuất hiện lần thứ ba ở đoạn văn nói việc Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và
được nhiều đám đông chào đón nồng nhiệt (12,12-19). Những đám đông này cũng
chính là đám đông thấy La-da-rô trỗi dậy, người thuật chuyện kể: “Vậy đám đông
làm chứng, họ là những người đã có mặt với Người [Đức Giê-su], khi Người gọi
La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh ấy trỗi dậy (êgeiren) từ giữa những kẻ chết”
(12,17). Ở câu 12,17, động từ egeirô diễn tả hành động “trỗi dậy” hay “sống lại”
của La-da-rô. Tóm lại, trong ch. 12, xuất hiện 3 lần động từ egeirô
(12,1.9.17), diễn tả hành động “trỗi dậy” của La-da-rô từ giữa những kẻ chết.
Ở ch. 21, người thuật chuyện kết thúc trình thuật mẻ cá lạ
lùng (21,1-14) như sau: “Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ,
sau khi được trỗi dậy (egertheis) từ giữa những kẻ chết” (21,14). Trong câu này,
động từ egeirô được dùng để diễn tả việc “trỗi dậy” hay “sống lại” của Đức
Giê-su. Động từ egeirô ở 21,14 được dùng ở dạng “thụ động Kinh Thánh”, hiểu ngầm
là Đức Giê-su được Thiên Chúa cho trỗi dậy từ giữa những kẻ chết.
Kết luận
Trong Tin mừng Gio-an, động từ “egeirô” có 4 nghĩa: (1)
“Dựng lại” Cung Thánh theo nghĩa thần học và nghĩa vật chất; (2) “Xuất hiện”;
(3) “Trỗi dậy”, “đứng dậy” hay “đứng lên”, nghĩa là thoát khỏi một tình trạng
hay vị trí; (4) “Trỗi dậy” theo nghĩa “sống lại” từ giữa những kẻ chết. Đức
Giê-su không chỉ được Thiên Chúa cho trỗi dậy hay sống lại mà Người còn có quyền
năng làm cho người chết trỗi dậy (5,21), vì Người là Con Thiên Chúa, nên cũng
có quyền năng giống như Thiên Chúa.
Ngày 26
tháng 10 năm 2012
Vinh sơn Ngô
Đức Duy, O.P.
Email:
vinhsonduyop@gmail.com
Thư mục tham
khảo
BEASLEY-MURRAY, G. R., John, (World Biblical
Commentary, vol. 36), Dallas (TX), Word Books Publishers, 1987, (Second
edition, Nashville, Thomas Nelson Publishers, 1999).
BROWN,
Raymond E.; FITZMYER, Joseph A.; MURPHY, Roland E., The New Jerome Biblical
Commentary, London: Prentice-Hall International, 1990.
HOWARD-BROOK,
Wes., Becoming Children of God, New
York: Orbis Books, 1994.
LÊ MINH THÔNG, Giu-se, (dịch giả), Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt, Nxb. Tôn Giáo, 2011.
MCPOLIN,
James, John, (New Testament Message - A biblical-Theological Commentary,
vol.6). Manila, Saint Paul publications, 1988.
MOLONEY, F. J., The Gospel of John, (SPS 4),
Collegeville (MN), The Liturgical Press, 1998.
THAYER,
“egerô,” trong Greek Lexicon (Bible Works 8).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire